Liều  đơn tối đa của ondansetron đường tĩnh mạch trong điều trị buồn nôn và  nôn do hóa trị ở người lớn hiện nay là 16 mg (truyền trong ít nhất 15  phút).
Các  dữ liệu nghiên cứu mới cho thấy có sự gia tăng nguy cơ kéo dài khoảng QT  được hiệu chỉnh trên điện tâm đồ (QTc), một tác dụng phụ đã biết của  ondansetron, khi dùng với liều cao hơn được cho phép trước đây trong  trường hợp buồn nôn và nôn do hóa trị.
Báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR ) tự nguyện gồm các phần thông  tin về bệnh nhân (tuổi, giới, cân nặng, chiều cao, địa chỉ,…); thông tin  về thuốc nghi ngờ gây ADR (tên thuốc, hàm lượng nồng độ, lý do dùng  thuốc,…); thông tin về các thuốc dùng đồng thời và bệnh sử; thông tin về  cách xử trí ADR; thông tin về người báo cáo (tên, địa chỉ, chuyên môn,  ngày báo cáo, đơn vị báo cáo,…).
Thuốc Thalidomide là loại thuốc chữa chứng ốm nghén cho những bà mẹ đang  trong thời kỳ mang thai, được sử dụng rộng rãi trong những năm 1950 và  1960. Tuy nhiên, Thalidomide lại khiến cho các em bé ra đời trong tình  trạng bị khuyết tật và không hoàn chỉnh. Những em bé này thường có tay  hoặc chân ngắn hơn bình thường, mắc các chứng bệnh liên quan đến bệnh  tim mạch, điếc bẩm sinh hoặc bị mù lòa hay các vấn đề về não bộ.
Lậu cầu là nguyên nhân chính dẫn tới nhiều biến chứng nghiêm trọng đến  khả năng sinh sản ở phụ nữ (bệnh viêm vùng chậu, thai ngoài tử cung và  vô sinh) và có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền HIV. Tuy  nhiên, điều trị bệnh lậu khá phức tạp bởi khả năng đề kháng kháng sinh  của vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae. Báo cáo sử dụng dữ liệu từ  các dự án giám sát và phân lập lậu cầu của CDC từ 2006 – 2011 (GISP),  CDC khuyến cáo điều trị kết hợp với ceftriaxon 250mg tiêm bắp liều duy  nhất với azithromycin 1g uống một liều duy nhất hoặc doxycyclin uống  100mg hai lần mỗi ngày trong 7 ngày để điều trị bệnh lậu không biến  chứng. CDC không còn khuyến cáo sử dụng cefixim để điều trị các bệnh  nhiễm trùng do lậu cầu.
Công tác theo dõi và báo cáo phản ứng có hại của thuốc nhằm mục đích:  Theo dõi độ an toàn của thuốc trong quá trình lưu hành để hướng tới mục  tiêu đảm bảo sử dụng thuốc hợp lý và an toàn.
Nếu dự phòng bằng Oxytocin hoặc Ergometrin thất bại, có thể lựa chọn tất cả các biện pháp điều trị. Nếu dự phòng bằng Misoprostol thất bại, có thể lựa chọn tất cả các biện pháp điều trị, trừ Misoprostol.
Magne sulfat đã được sử dụng kiểm soát tiền sản giật từ năm 1920, nhưng hiệu quả điều trị trong tiền  sản giật nặng và sản giật được công nhận lần đầu vào năm 1995 qua Thử nghiệm sản giật Collaborative.
Bisphophonates là thuốc chính yếu trong điều trị loãng xương. Đánh giá lâm sàng mở rộng chứng minh lợi ích của  Biphosphonate trong việc ngăn chặn sự tiến triển của bệnh và giảm nguy cơ gãy xương.